I Love You Forever

Tôi Muốn Trở Thành Bạn Của Tất Cả Mọi Người I Want Become A Friend Of EveryBody

Trung Tâm Cứu Hộ Máy Tính: tháng 2 2009

Triết lý cà chua

-Tôi thích cái “triết lý Cà chua” của nhân vật nữ chính trong phim “Tình cờ” của Hàn Quốc: “Tomato viết ngược lại vẫn là Tomato. Có đảo ngược thế nào thì cà chua cũng vẫn là cà chua”. Cà chua xanh thì bên trong cũng xanh, ngoài đỏ thì bên trong cũng đỏ. Không giống như quả dưa hấu, ngoài xanh mà trong lại đỏ...

-Con người ta không phải lúc nào cũng sống được như quả cà chua, sống thật đúng với cái “Tôi” bên trong của mình. Có khi muốn sống như thế nhưng lại không thể được. Và cái câu “đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy” lại được áp dụng triệt để như một lời biện minh hữu ích. Người ta bảo đấy là sự kết hợp Cà Chua với Dưa Hấu để cho ra thế hệ F1 hoàn hảo, biết biến hoá linh hoạt trong từng hoàn cảnh…

-Nhưng, như một onliner đã nói: “Nếu như trong cuộc đời, cái gì cũng là chính nó, người tốt kẻ xấu đều có thể phân định ngay từ lần gặp đầu tiên, cuộc sống còn thú vị nữa hay không? Cũng như trong cuộc sống, những “người xấu” thật ra cũng không đáng ghét lắm. Sự có mặt của họ tạo nên sự phong phú cho cuộc đời và ở một chừng mực nào đó, họ tạo nên thế đối lập khiến cho những người tốt được nhận diện và ngợi khen.

-Có một người bạn “Cà Chua” - cũng tốt - nhưng đối diện với một cây Dưa Hấu vẫn thú vị hơn nhiều. Không phải giả dối, mà là biết giấu mình đi một chút, sẽ khiến người đối diện cảm thấy được khám phá và phát hiện ra những thú vị ẩn chứa bên trong cái vẻ ngoài lạnh lùng ấy.

-Có người nói rằng sống trong đời là tìm cách chiếm lĩnh một lập trường sống, một lập trường nhân cách giữa cuộc đời. Ngoại trừ một số ít người có cái can đảm không quan tâm đến xung quanh, thì đa số những người còn lại đều có đôi lúc hoang mang về cách sống của mình”.

-Tôi không phải là một người “can đảm không quan tâm đến xung quanh”. Tôi đôi khi cũng vẫn hoài nghi về lối sống của mình. Nhưng tôi thích phân biệt rõ ràng “tốt” - “xấu”, kể cả ngay từ lần gặp đầu tiên. Tôi vẫn thích trắng đen rõ ràng hơn là mờ mờ ảo ảo. Và hơn hết, tôi vẫn thích có một người bạn “Cà Chua” hơn là một người bạn “Dưa Hấu”. Không phải ai cũng biết giới hạn của việc “giấu mình đi một chút” cho người khác khám phá. Người ta hay tham lam, hay đi quá đà mà chẳng nhận ra được đâu là điểm dừng.

-Thích thì bảo là thích. Không thích thì bảo là không thích.Yêu thì bảo là yêu mà không yêu thì nói không yêu. Đừng có miệng nói yêu mà trong bụng thì ghét, sau lưng lại nói xấu hết lời. “Dù ai cách núi ngăn sông ta cũng không nói ghét là yêu. Dù ai ngăn sông cấm chợ ta cũng không nói yêu là ghét”. Xấu thì hãy sống đúng như xấu, đừng cố tỏ ra mình tốt đẹp. Mà tốt đẹp rồi thì hãy giữ và làm cho mình tốt đẹp hơn. Nghèo thì không thể sống cuộc sống của giàu, mà giàu cũng chẳng thể cố vờ như mình nghèo khó.

-Sống đúng với bản thân mình, đấy mới là ý nghĩa sâu xa của triết lý Cà Chua!

-Tôi đã từng được giáo huấn thế này: “Em không thể giữ mãi một lối sống, một nếp suy nghĩ được. Em làm ở công ty A, tất cả mọi người đều cùng đi ăn cơm trưa với nhau. Nhưng khi em chuyển sang công ty B, mọi người chỉ thích gọi cơm hộp về văn phòng ăn thì em cũng không thể bắt tất cả bỏ thói quen ấy để đi ra ngoài ăn cùng nhau. Hoặc em cũng sẽ phải làm như họ hoặc em sẽ phải ra ngoài ăn một mình. Vậy thì khi đó, em có còn là em với thói quen cũ không? Em có còn là Cà Chua nữa không?”

-Tôi đã cười rất nhiều mỗi khi nhớ lại câu nói đó. Người nói rất thật lòng, đưa ra ví dụ rất cụ thể nhưng lại nhầm lẫn giữa việc thay đổi thói quen cho phù hợp với hoàn cảnh sống và việc sống đúng với con người mình. Tôi có thể chuyển sang ăn cơm hộp nhưng đó chỉ đơn thuần là chuyển thói quen chứ không có nghĩa là tôi sẽ biến thành một người xấu, cũng không có nghĩa là tính cách, phẩm chất của tôi thay đổi theo. Tôi vẫn cứ là tôi, đơn giản vậy thôi…!!!

-Còn bạn, bạn sẽ sống như thế nào? Như Cà Chua hay Dưa Hấu...?

Tác giả: Phương Hoa

Tạo ảnh nền cho ổ cứng và USB

Bạn có thể tạo hình nền cho các phân vùng ổ đĩa trên ổ cứng, trên My Documents, có thể là trên các bộ nhớ di động như USB… nhưng bạn không thể tạo hình nền cho các thư mục con bên trong chúng.

Để có thể tạo hình nền cho ổ đĩa, bạn kiếm một hình ảnh ưng ‎ys và chỉnh kích thước của chúng lại cỡ 800 chiều ngang và 600 chiều cao. Kích cỡ này tùy thuộc vào độ phân giải màn hình của bạn. Bài viết này sử dụng động phân giải mặc định là 1024 x 768. Trong trường hợp màn hình bạn có độ phân giải lớn hơn (hoặc nhỏ hơn) thì có thể chỉnh lại kích thước của bức ảnh sao cho phù hợp. Bạn có thể sử dụng Photofiltre để thực hiện việc này dễ dàng.
Sau khi đã chọn cho mình hình ảnh ưng ý và thay đổi kích cỡ của nó, bạn đặt bức hình đã chỉnh sửa vào thư mục bạn muốn tạo hình nền (các phân vùng ổ đĩa hoặc My Documents). Việc tiếp theo của bạn là click vào nút Start, chọn run và điền write vào hộp thoại. Cửa sổ Word Pad sẽ được mở ra, bạn copy và dán đoạn mã sau vào cửa sổ Word Pad
Code:
[.ShellClassInfo]
ConfirmFileOp=0
[ExtShellFolderViews]
{BE098140-A513-11D0-A3A4-00C04FD706EC}={BE098140-A513-11D0-A3A4-00C04FD706EC}[{BE098140-A513-11D0-A3A4-00C04FD706EC}]
Attributes=1
IconArea_Image=16.JPG
Trong đó, điều bạn cần lưu ý là dòng IconArea_Image=16.JPG . Đây là tên của file bạn muốn sử dụng làm background. Trong trường hợp bạn muốn sử dụng 1 file tên là Test và có định dạng BMP thay vì JPG, bạn sẽ sửa lại nội dung của dòng đó như sau : IconArea_Image=Test.BMP.
Ngoài ra, trong trường hợp bạn muốn sử dụng 1 thư mục khác để chứa hình ảnh làm background, chẳng hạn bạn tạo 1 thư mục hinh_nen để chứa file 16.JPG dùng làm background, bạn cần phải đặt file 16.JPG đó bên trong thư mục hinh_nen và thư mục hinh_nen đó phải đặt ngay trong ổ đĩa bạn muốn tạo background. Bây giờ, bạn sửa dòng trên lại thành : IconArea_Image=hinh_nen\16.JPG.
Sau khi đã chỉnh sửa xong nội dung, bạn lưu lại file đã tạo ra dưới tên gọi desktop.ini bằng cách tại cửa sổ Word Pad, bạn chọn File, bấm Save (hoặc bấm tổ hợp phím Ctrl + S). Tại khung File name, bạn điền desktop.ini và click Save. Bạn chọn save file này ngay bên trong ổ đĩa bạn muốn tạo background.

Sau khi bạn Save lại, bạn vào My Computer và chọn ổ đĩa bạn đã tiến hành các thao tác trên. Bây giờ, bạn sẽ thấy nền của ổ đĩa không còn là một màu trắng buồn tẻ mà ngược lại là hình ảnh tuyệt đẹp mà bạn đã chọn trước đó. Nếu bạn không muốn file autorun.ini và hình ảnh làm hình nền choáng chỗ trên ổ đĩa, bạn có thể click chuột phải vào 2 file này, chọn Properties và chọn Hidden ở mục Attribute.

Sửa lỗi Font khi duyệt web với IE

Mở trình duyệt IE
Vào tools \ Internet Options







Sau đó sẽ hiện lên 1 bảng bạn click vào Accessibility góc phải đó


Bạn tick vào ô thứ 2 và 3 là OK













































Key cho phần mền

CDKEY WIN95 =

09297-OEM-0021245-57958

33595-OEM-0007266-69329

00100-OEM-0123456-00100

CDKEY WIN98 =

HQ6K2-QPC42-3HWDM-BF4KJ-W4XWJ (98SE Umum)

Q6MFB-YQ4YR-3J9RG-J7CW8-6XM7C

C3XR4-MT74T-63BTV-F6WQF-2QY4J (98SE ORI)

JFXM3-DHP8K-WRYQF-4WVJX-JG44D (WIN98SE.THI)

F73WT-WHD3J-CD4VR-2GWKD-T38YD (WIN98TH)

WHWGP-XDR8Y-GR9X3-863RP-67J2T (wIN98SE)

W7XTC-2YWFB-K6BPT-GMHMV-B6FDY

HMTWJ-VPPWP-9BXP8-WD73Y-GGT6M

J7C6X-QC2BH-GGX24-7FQG7-2K398

K4HVD-Q9TJ9-6CRX9-C9G68-RQ2D3

CDKEY WINME =

B6BYC-6T7C3-4PXRW-2XKWB-GYV33

BRM46-F9DRR-X32C9-J62QQ-GCY3B

TCYV8-G6Q2T-R9BHD-BR8VM-J4B36

J7C6X-QC2BH-GGX24-7FQG7-2K398

TCJC7-H2QDH-3T7G7-R6RTM-YRK3Y

K9KDJ-3XPXY-92WFW-9Q26K-MVRK8

CDKEY WIN200 =

RM233-2PRQQ-FR4RH-JP89H-46QYB

RBDC9-VTRC8-D7972-J97JY-PRVMG

QB2BW-8PJ2D-9X7JK-BCCRT-D233Y

DDTPV-TXMX7-BBGJ9-WGY8K-B9GH

F6PGG-4YYDJ-3FF3T-R328P-3BXTG

JVJDR-KY99G-B8J4C-MKJ69-P8QG3

H6TWQ-TQQM8-HXJYG-D69F7-R84VM

JVJDR-KY99G-B8J4C-MKJ69-P8QG3

XFD2W-W7VH8-MVC47-KY7DQ-P8Y4J

XF7DK-7X2WM-2QRCT-Y9R23-4BHDG

RBDC9-VTRC8-D7972-J97JY-PRVMG

PQHKR-G4JFW-VTY3P-G4WQ2-88CTW

WindowsXP =

XP8BF-F8HP-FPY6BX-K24PJ-TWT6M (XP SP1 Or XP SP2 Standar)

CCMHM-C42K3-G4794-337WM-7884B (XP SP2 ORI)

CXGDD-GP2B2-RKWWD-HG3HY-VDJ7J

RK7J8-2PGYQ-P47VV-V6PMB-F6XPQ

RBDC9-VTRC8-D7972-J97JY-PRVMG

DTWB2-VX8WY-FG8R3-X696T-66Y46

Q3R8Y-MP9KD-3M6KB-383YB-7PK9Q

411Y0-URB45-34R3B-310N6-70U51

F0R6R-347JU-57IC3-M0V34-11Z16

50M38-0DY53-7UPU5-7H380-M8111

RK7J8-2PGYQ-P47VV-V6PMB-F6XPQ

JQ4T4-8VM63-6WFBK-KTT29-V8966 (Home Edition)

FCKGW-RHQQ2-YXRKT-8TG6W-2B7Q8 (Corporate Edition)

yq7xw-qpt6c-233qf-rrxc7-vf7ty (Corporate Edition SP2)

x4ptj-6wp7j-bfvcy-wydjt-dmddk (Corporate Edition SP2)

3px6y-7htr8-4pvpq-pyfgk-grk3p (Corporate Edition SP2)

XJT36-B8T7W-9C3FV-9C9Y8-MJ226 (Corporate Russian)

YQ7XW-QPT6C-233QF-RRXC7-VF7TY (Xp Sp2)

X4PTJ-6WP7J-BFVCY-WYDJT-DMDDK (Xp Sp2)

3PX6Y-7HTR8-4PVPQ-PYFGK-GRK3P (Xp Sp2)

3FC6J-PVRYV-38KFF-B2K46-CDHH6 (Xp Sp2)

PM732-VDYT8-27YHH-QMMB7-CXPYW (Xp Sp2)

KQP93-C2RTK-KWBPY-6FQMB-83K98 (Xp Sp2)

VRX6Y-WPCDX-XBK2P-FCR6B-3CBQ6 (Windows XP Pro Corporate Sp1 or Sp2)

FCKGW-RHQQ2-YXRKT-8TG6W-2B7Q8 (Windows XP PRO)

RH6M6-7PPK4-YR86H-YFFFX-PW8M8 (Windows XP Home)

QYYK9-2VKBR-P937M-73PM8-3QV63

KYRYR-8CYYM-3CX9P-D3JWH-TF4FD

CJTJG-FPWKM-7RCHV-WD8Q7-QX6Q6

BCCTM-B72PV-B9MQV-HCTFC-RQ4CT

JWK93-7M24G-46KVR-RX3MF-DHTKY

XBB8W-WRKKB-2RCG2-8J3RB-2XCKD

TKTWQ-KVXG4-G9TRJ-QWP7H-6FKVJ

Windows XP Service Pack 2 2600.xpsp_sp2_rtm.040803-2158

7MD2F-FYJX4-D4R2B-3M7W2-DC9PD

WGQMG-3622W-4CPWB-YJP6W-RDWGJ

BH9Y3-B7GTR-FD86G-Y23M2-4DT88

DKGV3-PH66D-Y72B6-8XDXB-R3QFB

3G874-7427P-YB4PW-D3RCB-GKJHY

win2003 Standard Server CD-KEY:

M6RJ9-TBJH3-9DDXM-4VX9Q-K8M8M

win2003 Web Server CD-KEY:

D42X8-7MWXD-M4B76-MKYP7-CW9FD

win2003 Enterprise Server CD-KEY:

QW32K-48T2T-3D2PJ-DXBWY-C6WRJ

WINSOWS VISTA 32BIT

6H6XW-QPVQQ-B6G4D-9V348-JXPB6

Visio 2003,OneNote 2003,Project 2003,OFFICE11-Outlook2003

CD-KEY:WFDWY-XQXJF-RHRYG-BG7RQ-BBDHM

CDKEY MS-OFFICE 95/97 =

4667-1111111

1112-1111111

CDKEY OFFICE2000 =

GC6J3-GTQ62-FP876-94FBR-D3DX8

JVD4K-MKCDP-83R4H-7GFCQ-2C9KB

GJ627-VB478-VJX8D-CFQGK-JHPG8

GJV8J-DRRCG-MVTRJ-G33HM-8BCVM

Microsoft Office 2000 Sr1 5CD S/N:

KY7XV-6PF6K-FQDGJ-4PYQY-QDFYM

Q3PX2-T7Y8Q-8X2VR-PQCTP-YQCYQ

H3X78-Q23HJ-TGT6Q-DK2H4-T2BQ8

CDKEY OFFICE XP =

FM9FY-TMF7Q-KCKCT-V9729-TBBBG

RHRDV-KPKHH-7PMHY-4CTXW-Y7XFD (Microsoft Office XP Professional with

Publisher Version 2002)

MQPD6-C748R-FMRV6-8C3QK-79THJ

PBFK4-KX8GV-JD886-MT2GX-G4J4Y (Office Xp Hebrew)

MP4F9-W6C8V-HTCCT-T7M7R-Y7K3Y (Office XP Developer Edition)

32CX-323F-7854-FGHF-H55H Office (XP PRO)

C8XVK-RKJH6-QMM2V-HKXG2-RKC3Y (Office XP Standard 2002)

CDKEY OFFICE 2003 =

GWH28-DGCMP-P6RC4-6J4MT-3HFDY

Ý nghĩa cuộc sống

Có chuyện gì đó làm cho bạn lo lắng hoặc bận tâm?

































Hãy gửi thông điệp này khi bạn đọc nó nhé!

Diệt virus bằng tay

Các bạn down NC về và bạn phải nhớ kỹ nghen NC là 1 chương trính soạn thảo văn bản nhưng NC có tính năng phát hiện file ẩn nên chúng ta sẽ lợi dụng nó để diệt virut.

Bạn copy NC vào trong ổ E

Sau đó bạn vào Start\Run\

Và gõ lệnh cmd để vào DOS





Vào và ra 1 folder các bạn sử dụng phím Enter

Để di chuyển các ban sử dụng 4 phím lên, suống, sang phải, sang trái.

Để vào ổ D của máy tính bạn các bạn gõ như sau :

D: và nhấn Enter




Nếu như bình thường USB của bạn không có gì đâu! Nhưng khi cắm USB của bạn vào mà nó có file “ Autorun.inf ” thì chắc chắn USB của bạn đã có virut. Có 2 khả năng xảy ra.

1 là : Virut là 1 tệp thực thi chỉ chờ cho bạn mở USB là nó tấn công chúng ta.

2 là : Nó được đính kèm vào 1 file chạy .exe của bạn

Nếu nó được đính kèm vào file đính kèm .exe tốt nhất bạn nên dùng Bkav mà quét nhớ!

Còn nếu là 1 tệp thực thi bạn có thể dùng NC diệt bo tay cho sướng!

Đơn giản bạn chỉ nhấn F8 và Enter là OK.




Nếu bạn nhìn thấy như ổ F là bạn đã nhiễm rồi đó F là ổ USB của tôi. Và bạn phải diệt nó trước khi mở USB nha!





Code:
http://www.mediafire.com/?qghmznld2zj

Viết chữ lên hình

Có nhiều thân hữu hỏi thăm về cách viết chữ có dấu tiếng Việt lên các tấm ảnh, hôm nay tôi xin gởi đến quí bạn bài ngắn nầy chỉ cách viết những hàng chữ đơn giản lên một tấm ảnh. Bài nầy giúp quí bạn đề thơ vào ảnh không cần đến bút lông, chỉ cần cái computer mà thôi. Ðiều nầy có khi rất bất tiện, dùng bút lông như ngày xưa coi vậy mà hay. Không lẽ Lục Vân Tiên đi đâu cũng phải mang cái computer kè kè để chờ cơ hội viết mấy hàng thơ thẩn tặng Kiều Nguyệt Nga.

Muốn viết chữ trên một tấm ảnh quí bạn cần phải có một software dùng edit ảnh, nói nghe rắc rối chớ thật ra đó chỉ là những software như Photoshop, Paintsoft… hay tệ lắm là Paint của Windows XP mà computer nào cũng có sẵn. Vì Photoshop khá đắt tiền nên nhiều bạn chưa có, tuy nhiên vẫn có nhiều bạn đã mua hay “chôm được” nó, do đó tôi sẽ chỉ quí bạn theo hai cách, một là dùng Paint của Windows XP, hai là dùng Photoshop. Quí bạn có software nào khác thì cũng thực hành tương tợ, không khó chi cả. Cũng như các bài khác của tôi, tôi dùng chữ thật giản dị, miễn sao quí bạn tay ngang hiểu và thực hành được thì thôi, các bạn có tay nghề xin đừng cười.

1. Dùng Paint của Windows XP.

Ghi chú: hình hướng dẫn ở đây là từ Paint của Windows XP Professional, có khi khác với Windows XP Home Edition

a. Ðể run program paint ra quí bạn click StartàAll ProgramsàAccessoriesàPaint

Khi Paint đã chạy rồi quí bạn click FileàOpenà tìm tên tấm ảnh quí bạn muốn viết chữ vào và click OK để mở nó trong Paint..


Kế tiếp xin theo hình hướng dẫn sau:



Phòng chống virut

Sau một thập niên sử dụng máy tính cá nhân và người dùng phải trải qua mối đe dọa của virus máy tính.

Michelangelo và một số virus khác đã tấn công vào hệ thống máy tính của Adeline Ho và xóa sạch một số tập tin trước khi họ phát hiện ra. Nhân viên bảo hành máy phải tạm ngưng mọi hoạt động của máy tính và gọi chuyên gia diệt virus đến.

Những người sử dụng máy tính ở Ho đều đã từng trải. Iít ra họ cũng đã biết rõ virus là gì? Họ là những người đã từng phát hiện ít nhất một virus ở một số đặc điểm nào đó.

Một kỹ thuật viên của Tech Pacific cho biết: "Muốn bắt một virus thì không có vất vả gì cả vì theo ước tính của Hội Bảo An Máy Tính Hoa Kỳ (US National Computer Secutity Association) là sẽ có một lượng lớn trên 14.000 virus vào năm 1994. Và tiếp theo năm sau đó, con số ước tính này sẽ đạt đến 38.000.

Mặc dù đây có thể là một tin tốt cho công nghệ phòng chống virus nhưng nó không phải là chuyện đùa đối với nhiều người sử dụng máy tính mà hệ thống của họ đang làm mồi cho virus.

Thật là hiểm độc, những đoạn mã lệnh gây rối và phá hoại gộp lại thành một đoạn chương trình nhỏ như là virus nhưng chúng chưa hẳn là virus. Một virus thật sự là tự nó tấn công vào một đoạn mã lệnh nào đó của chương trình có khả năng thực hiện được (đây chính là đặc điểm của virus File trên các tập tin .EXE, .COM, .SYS hoặc thậm chí cả .OVL) và can thiệp vào hoạt động của chương trình mỗi khi thực hiện chương trình đó.

Một khi virus đã nạp vào bộ nhớ, nó cố gắng lây lan sang nhiều chương trình khác. Thật là nguy hại, nếu máy bị nhiễm virus có nối mạng, nơi virus có thể tung hoành như cá gặp nước vậy.

Phản ứng dây chuyền

Mặc dù mạng máy tính là đường nhanh nhất để phát triển thành một dịch virus, đó cũng chưa phải là đường duy nhất để virus tung hoành. Bạn cũng có nguy cơ bị virus khi sao chép phần mềm từ bạn bè, từ nơi công cộng.

Virus phá hoại rất đa dạng, cách hoạt động của chúng cũng đa dạng không kém. Nó có thể phá hoại sau khi file bị nhiễm được truy xuất một số lần, hay là phá hoạt trong một thời điểm nhất định nào đó. Asuza, một virus thường trú, sau khi nhiễm vào 32 file sẽ phá hoại các thiết bị ngoại vi bằng cách khống chế các cổng nối tiếp và song song. Trái lại Michelangelo đón mừng sinh nhật của mình bằng cách ghi đè lên 9M đầu tiên của đĩa cứng vào ngày 6 tháng 3. Mặc dầu đã có sự phá hoại tiềm tàng của virus, ông giám đốc của Computerware for Micros cảm thấy hầu hết virus đều vô hại. Ông tin rằng các virus chỉ đơn thuần là các trò giải trí tạm thời. Vị giám đốc của Computerware for Micros này chỉ ra rằng, chẳng hạn như virus Oropax chỉ phát nhạc trong lúc nghỉ. Tất nhiên các virus "hiền" cũng có khi làm mất những dữ liệu mà bạn chưa ghi lại trên đĩa vì bị virus đùa giỡn. Dù hiền hay dữ, virus được phân loại theo cách mà nó nhiễm vào máy. Vì thế có virus Boot và virus File.

Boot sector là gì?

Boot sector là một vùng trên đĩa mềm hay đĩa cứng dùng để khởi động máy PC. Virus sẽ chèn đoạn mã của nó vào đấy, vì thế mỗi lúc máy bật lên thì virus đã tải lên bộ nhớ rồi (xem hình 1). Nó cũng có thể lây vào partition, nhưng hiếm hơn.

Những virus này thông thường nhiễm vào máy thông qua đĩa mềm có chứa virus. Michelangelo và Stoned là những virus thuộc loại này. Virus boot rất nguy hiểm nhưng việc diệt nó rất dễ.

Virus file tự nối nó vào các file thi hành . Nó cũng có khả năng sửa đầu vào của chương trình chính để nó được quyền thực hiện trước (xem hình 2). Virus này phải cẩn thận để không ghi đè lên chương trình đã bị nhiễm virus rồi.

Vậy chẳng qua virus là một chương trình nhỏ bám vào các chương trình khác. Vì thế, để hoạt động (hay phá hoại) nó phải được thi hành trước đã. Nó chỉ hoạt động khi nhiễm vào các file .COM, .EXE hay Overlay và boot sector của đĩa.

Các file dữ liệu không thi hành được nên không bị nhiễm virus. Vì thế các file dữ liệu của các chương trình xử lý văn bản, bảng tính v.v. chắc chắn không bị nhiễm virus.

Một số virus chỉ là virus "nhất thời". Nó chỉ hoạt động khi phần chương trình nhiễm virus được thực hiện. Trong khoảng thời gian này, nó cố gắng nhiễm càng nhiều file càng tốt trước khi kết thúc chương trình.

Những loại virus hiệu quả hơn là những loại virus có khả năng thường trú (TSR). Nó vẫn còn hoạt động trong bộ nhớ ngay cả khi chương trình chính ngừng hoạt động. Ðiều này có nghĩa là nó có khả năng lây lan ra toàn bộ các chương trình trên máy khi có cơ hội.

Ðể có thể bám lại bộ nhớ, virus TSR cướp quyền điều khiển của máy tính bằng cách sửa bảng vector ngắt. Khi các phục vụ của DOS và BIOS được gọi, virus đã chặn được các ngắt này nên nó sẽ thực hiện đoạn chương trình của nó trước khi trả quyền điều khiển cho các ngắt (xem hình 3). Vì nó vẫn còn nằm trong bộ nhớ, cách duy nhất để làm nó ngừng hoạt động là tắt máy. Dù vậy nếu nó là virus boot thì nó đã có mặt trên boot sector và virus sẽ lại nắm quyền điều khiển của máy tính.

Stealth virus

Trước đây, các loại virus dù là boot hay file đều rất đơn giản. Tất cả các virus xung quanh ta hình như có họ hàng với nhau. Nhưng mới đây một loại virus mới rất nguy hiểm vừa xuất hiện, đó là Stealth virus.

Những virus trước kia được thiết kế sao cho có thể tránh né sự phát hiện. Nhưng nó vẫn để lại một ít dấu hiệu.

Những kẻ viết virus đã cố gắng viết thêm một số loại virus mới tinh khôn hơn. Ðiển hình là virus 4096. Nó hòa nhập thực sự vào môi trường xung quanh. Nó thông qua ngắt DOS để tự cài đặt cũng như gỡ những đoạn mã của mình ra khỏi file bị nhiễm khi các chương trình này được quét virus.

Gần đây cũng có những virus "tự đột biến" (Mutation engine). Nó có cơ chế tự mã hóa khi lây vào file. Sự phức tạp của giải thuật mã hóa này sẽ phát sinh hàng tỷ dạng khác nhau của virus. Khi lây nó chỉ lây một trong các dạng đó làm phát sinh một dạng virus mới (Xem hình 4). Pogue là một thí dụ cho loại virus này. Các chương trình quét rất khó khăn trong việc tìm các virus đa hình này. Có một vài cách để phòng ngừa sự tấn công của virus hay ít ra cũng giảm thiểu sự phá hoại của chúng.

Những sản phẩm chống virus có nhiều phương pháp để phát hiện virus nhưng chúng ta có thể chia làm 3 loại.

1. Quét (scanner)

Ðây là phương pháp sớm nhất mà các chương trình chống virus thường dùng. Hầu hết các virus đều có những dấu hiệu để chúng không tự nhiễm trở lại các file đã nhiễm, vì thế scanner tìm thấy những "nhãn hiệu" này khi chúng quét qua file. Virus sẽ được phát hiện nhờ sự so sánh với các dấu hiệu của những virus đã biết.

Tuy nhiên, chương trình dùng phương pháp này cần phải cập nhật thường xuyên. Nếu không nó sẽ không phát hiện được các loại virus mới. Thông thường các virus đã tung hoành khoảng nửa năm mới bắt được nó.

Một phần mềm chống virus được cập nhật thường xuyên là Scan của McAfee. Cứ 2 đến 4 tuần, chương trình được cập nhật một lần và được thông báo và phân phát rộng rãi trong quần chúng.

Tuy nhiên , phương pháp này không trị được virus đa hình vì những virus này không có dấu hiệu nhận dạng cố định.

2. Checksum

Nguyên thủy Checksum dùng để kiểm tra tính toàn vẹn của dữ liệu, nguyên tắc của kỹ thuật này là phát hiện sự thay đổi trong file hoặc boot sector. Chương trình sẽ phát sinh ra một trị số gọi là checksum và sẽ được kiểm tra định kỳ với file hiện hành. Nếu virus thâm nhập file này, chương trình sẽ báo động. Tuy sự kiểm tra thường xuyên sẽ tốn thời gian nhưng phương pháp này chỉ làm việc tốt khi có sự kiểm tra đều đặn.

Virus có thể lừa một chương trình chống virus nào đó bằng cách cho tạo một checksum giả. Ðể tránh việc này, vài chương trình chống virus dùng nhiều checksum khác nhau và các kỹ thuật mã hóa tạo checksum rất phức tạp hòng không thể giả mạo được.

Vả lại có rất nhiều kỹ thuật checksum khác nhau được các chương trình khác nhau sử dụng nên việc virus cố tình chống lại một chương trình nào đó cũng bằng thừa.

Ðiểm yếu của phương pháp này là nó không có khả năng phân biệt giữa sự thay đổi thật sự và thay đổi do virus tấn công. Từ đó người dùng phải luôn lo lắng với các thông báo sai. Phương pháp này sẽ giúp "nuôi" virus nếu checksum ban đầu không sạch sẽ.

Stealth virus có thể lẩn trốn checksum. Nó chặn lúc kiểm tra checksum và tránh được sự phát hiện bằng cách loại bỏ tạm thời chính nó ra khỏi file đang checksum. Vì thế chỉ có kiểm tra bằng phần cứng mới phát hiện được chúng. Một số ROM BIOS mới có thể phát hiện được virus trên boot sector trước khi nó được nạp vào máy.

3. Disk Access Monitor

Một số trình tiện ích chặn mọi thao tác về đĩa, thông báo cho người dùng biết mọi điều khả nghi, chẳng hạn như việc ghi lên file EXE, COM hoặc ghi trực tiếp lên các sector của đĩa.

Tuy nhiên, cách này không phát hiện được virus boot dùng BIOS để truy xuất đĩa. Những virus này được nạp trước cả khi các TSR chạy. Chúng đã sửa các đầu vào của BIOS vào chương trình chúng làm cho chương trình Access Monitor gọi chương trình virus chứ không phải gọi BIOS (xem hình 5)

Disk Access Monitor thông báo sai khi các ứng dụng có ghi lên file EXE hay COM, chẳng hạn như trong quá trình cài đặt phần mềm. Hy vọng sau này sẽ có những cải tiến làm cho các chương trình này thông minh hơn, nó sẽ phân biệt đâu là thông báo sai và đâu là thông báo đúng.

PCSafe Data Guardian áp dụng nguyên tắc này theo hướng khác. Nó nằm trong phần cứng nên được tải vào bộ nhớ trước khi boot máy. Kể từ đó, nó sẽ báo động mọi thao tác cố tình ghi lên boot sector hoặc file có khả năng thực thi.

Phải nhìn nhận rằng không có phương pháp nào đủ để ngăn chặn được virus. Các sản phẩm phòng chống virus gia tăng và mỗi sản phẩm đều kết hợp nhiều hơn hai phương pháp trên để phòng chống.

Các sản phẩm chống virus như PC-cillin. Armour và Thunderbyte tập trung sức mạnh vào phương pháp Access Monitor.

McAfee lại dùng phương pháp scan và được cập nhật liên tục. Tuy nhiên sự gia tăng của virus sẽ làm cho tốc độ quét giảm xuống đáng kể.

Việc diệt virus cũng là một vấn đề không kém quan trọng. Nó thường xảy ra song song với việc phát hiện virus. Sau đây là một số phương pháp diệt virus.

1. Loại bỏ đoạn mã virus

Ðây là cách truyền thống làm tê liệt virus trực tiếp. Tuy nhiên nếu có nhiều virus lây vào một file, chúng sẽ "đan" chồng chéo lên nhau và phương pháp này có thể làm hỏng file nguyên thủy. Với virus boot thì diệt chúng bằng phương pháp này rất hữu hiệu vì đoạn boot sector rất ngắn.

2. Ghi đè và "xây dựng" lại file

Với virus boot, phương pháp này sẽ thay thế boot sector cũ bằng một boot sector mới, sạch. Khi checksum nghi ngờ boot sector có vấn đề, nó sẽ ghi đè lên boot sector một boot sector mới khác. Kết quả là virus bị xóa sạch trước khi nó nhiễm qua đĩa khác. Có thể xây dựng lại file từ các chức năng phục hồi dữ liệu của một chương trình chống virus nào đó. Những sản phẩm "xịn" thường dùng kỹ thuật nén dữ liệu để chúng có thể xây dựng lại đĩa từ một đoạn dữ liệu rất nhỏ. Central Point Anti Virus và Untouchable thuộc những sản phẩm làm được công việc này. Cách xây dựng lại này rất dễ dùng nhưng có khả năng bị hỏng. Phương pháp này rất cần thiết cho những người dùng kém yếu về hệ thống.

3. Backup toàn bộ đĩa cứng

Backup đĩa cứng là phương pháp tốt nhất để phục hồi hư hỏng và diệt virus trong máy. Nếu bạn đang phục hồi toàn bộ dữ liệu, hãy format đĩa cứng trước. Một số virus vẫn trụ lại được nhờ có khả năng chống lại format của DOS, vì thế bạn nên format đĩa cứng cấp thấp trước khi backup dữ liệu.

Có một chương trình chống virus nào thực sự dễ dùng không? Câu trả lời là có và đó là Write Guard của Uúc. Nó bảo vệ đĩa cứng, giúp người dùng bảo vệ các file có thể bị virus tấn công (EXE, COM, OVL).

Việc phòng chống virus hết sức khó khăn, những kẻ viết virus luôn tìm mọi khe hở của các chương trình chống virus dù đó là chương trình mạnh nhất. Trò chơi rượt bắt này rõ ràng không bao giờ kết thúc. Những dạng virus mới sẽ gài bẫy chương trình chống virus bằng cách chúng sẽ giả dạng những virus đơn giản khác. Cuối cùng khi "virus giả" đã bị diệt thì thủ phạm thật sự mới nhảy ra phá phách...

Virus nào dù xảo quyệt đến đâu rồi cũng sẽ bị tiêu diệt. Nếu không tin, hạn hãy quan sát các virus mới xem sao.

Săn lùng virut

Ngoài việc phá hoại thực sự, các virus còn náu lại chờ thời cơ, không phải lúc nào cũng có thể dễ dàng phát hiện máy tính của bạn đang bị nhiễm virus. Tuy nhiên, ngay cả những manh mối mơ hồ nhất vẫn có thể bị phát giác, thì virus cũng vậy.

Một triệu chứng bạn có thể phát hiện là kích thước các file EXE của bạn tăng lên. Tương tự, khoảng trống trên đĩa bị giảm đột ngột cũng có thể là do sự có mặt của virus.

Virus TSR để lộ sự tồn tại của chúng bằng cách chiếm chổ trong RAM, và bộ nhớ bị giảm là tín hiệu có mặt của nó. Tuy nhiên bạn phải có chút hiểu biết về phân phối bộ nhớ hệ thống thì mới có thể nói chắc chắn được.

Một số loại virus gây ra tình trạng bất thường của hệ thống. Các virus trong bộ nhớ có thể thay đổi các yêu cầu dịch vụ hệ thống một cách cố tình hoặc vô ý, làm mất hoặc cắt xén thông tin ra màn hình hay máy in, và làm chậm tốc độ truy cập hệ thống. Hãy chú ý khi các chương trình của bạn tải chậm hơn.

Vì virus cần tự sao nó để tiếp tục lây lan, nó sẽ tạo ra nhiều quá trình truy cập đĩa, và đó chính là một manh mối rõ rệt. Các virus mới hơn thường làm cho các truy cập của chúng trùng với các truy cập chính thức.

Triệu chứng rõ rệt nhất là chương trình của bạn làm việc bất bình thường hoặc đĩa cứng bị mất dữ liệu. Ðó là mối nguy hại lớn làm cho ta phải đấu tranh tích cực chống virus.

Chữ ký riêng

Khi virus lan truyền, chúng cũng phải thận trọng để khỏi nhiễm lại các file chúng đã ảnh hưởng. Nếu không chúng sẽ làm cho file tiếp tục lớn lên, chiếm chổ trên đĩa và để lộ sự có mặt của chúng. Ví dụ virus Israeli hoạt động theo phương thức như vậy.

Ðể tránh điều này, nhiều loại virus đánh dấu các file hoặc các sector khởi động mà nó đã nhiễm bằng chữ ký riêng (mã xác định thẩm quyền đặc biệt).

Chữ ký đặc trưng là một thứ tự các byte tại vị trí đặc biệt. Các chương trình quét virus tìm vào các mã này để phát hiện virus. Các chương trình phòng ngừa cho file cũng giống như virus: chúng đưa chữ ký giả, virus bỏ qua file này.

Các virus thường trú bộ nhớ thường cài đặt các chức năng DOS đặc biệt chứng tỏ sự hiện diện của virus.

Cho phép xóa

Không phải tất cả các "mã xóa", đều là virus. Tuy nhiên các phần mềm như Trojan Horses, Worms có một điểm chung với virus: chúng đều là những mối nguy hiểm được chương trình hóa.

Trojan là các chương trình hoàn thiện, độc lập và không tự lan truyền. Giống như Greek, Trojan Horses dự định làm những việc hữu ích như sắp xếp file của bạn theo vần chữ cái, chạy các trò chơi, nhưng thực tế thì nó có thể xóa file hoặc format lại đĩa cứng của bạn.

Worm, cũng như Trojan, là những chương trình độc lập, hoạt động không cần chương trình chủ.

Chúng thường bị nhầm là virus vì có thể tự tạo (lan truyền). Tuy nhiên chúng chỉ hoạt động trong môi trường mạng và không làm thay đổi các chương trình khác, nhưng chúng có thể mang virus làm việc đó. Worms tương đối hiếm vì khó viết và đòi hỏi tác giả phải quen thuộc với các dịch vụ và khả năng của mạng.

Bacteria và Rabbits là những chương trình không phá hỏng rõ rệt các file. Chúng chỉ lan tràn nhanh chóng theo cấp số mũ cho đến khi chiếm trọn khả năng xử lý, bộ nhớ và ổ đĩa. Các máy tính không được giới hạn thành phần và tài nguyên thì rất dễ bị tấn công

Hiển thị lời bài hát lên wmp

Để hiển thị được lời bài hát các bạn hãy bật nó lên



Bạn hãy mở bài hát muốn hiển thị lời rùi làm theo các bước sau



Các bạn nhớ chỉ thực hiện được trên wmp10 và wmp11 thui nha!










Click chuột phải vào bài hát mà bạn muốn hiển thị chọn thẻ Advanced Tag Editor












Sau đó bạn chọn thẻ Lyrics rùi nhấn Add và đánh lời bài hát vào đó là OK



Vợ và định nghĩa!

-Nông dân: Vợ là miếng đất cằn cỗi, nh­ưng ta vẫn phải cày vì không cầm cố được.

-Ng­ười bán vé số: Vợ là tờ vé số, khi mua ai cũng hi vọng mình sẽ trúng.

-Thợ máy: Vợ là một cỗ máy hiện đại, ít h­ư nh­ưng h­ư thì khó sửa.

-Cầu thủ: Vợ là một tiền vệ chỉ có tài giữ chân ta.

-Thợ điện tử: Vợ là cái ti vi kỳ là, hình càng ngày càng xấu nh­ưng tiếng càng ngày càng tốt.

-Nhà quảng cáo: Vợ là sản phẩm được các bà mẹ ... vợ tin dùng.

-Nhà động vật học: Vợ là một cá thể không thuần chủng mà do lai tạo giữa nai và s­ư tử.

-Nhà tài chính: Vợ là ngân hàng mà chỉ gửi tiền vào chứ không rút ra được.

Anh Trai mình đó

Chat nhiều nick với Yahoo!

Bạn mở notepad nè

Sau đó copy code sau và lưu với tên ChatNhieuNick.reg

Code:

Windows Registry Editor Version 5.00

[HKEY_CURRENT_USER\Software\yahoo\pager\Test]

"Plural"="1"

Thay đổi kích thước Tab

Thay đổi khoảng cách khi nhấn Tab

Thông thường giá trị mặc định khi bạn nhấn nút Tab sẽ là 0.5 inch tức là1,25 cm. Bạn có thể thay đổi khoảng cách này bằng cách chọn menu Format – Tabs rồi ấn định khoảng cách mới vào mục Default tabs stop và nhấn OK.

Tạo trang bìa Word

Phương pháp này tạo một file chẳn hạn như tiểu luận có nhiều trang mà trang đầu tiên là trang bìa, các trang sau mang có thể setup trang khác trang bìa.

-Hãy tạo một tài liệu mới (New document) sau đó 2. Bạn hãy vào Format -> Border and shading… -> Page Border ->Apply to: This section Sau đó chọn click vào Option chọn Khi bạn trang trí lại làm bìa xong Sau đó cho dấu nháy qua trang mới Để dễ thao tác với các kí tự đặc biệt (các kí tự không in), chúng ta bật chế độ show all nonprinting characters (kí hiệu có khoanh đỏ. Đôi khi không nhìn thấy icon đó trên màng hình. Ta chỉ cần drag nguyên thanh toolbar standard ra ngoài hoặc ở cuối thanh toolbar có dấu ) Ngay đầu trang ấn enter thêm một lần nữa Rồi sau đó insert section bằng cách vào menu Insert -> Break… -> Chọn Section break types là Countinous ->OK Sau bước này ta được Đối với MS Word nó cho phép quản lí theo section nên ta có thể thay đổi kích thước trang trên (trang ở trên section), hoặc xác lập trang đứmg hay trang ngang hoặc thay đổi thông số xác lập Margins (canh lề) cho mỗi section, và đánh số trang, tạo header và footer riêng cho mỗi section. Khi muốn hiệu chỉnh ở section nào thì click chuột cho con nháy nằm ở section đó. Như vậy ta có thể hiệu chỉnh trang bìa với kích thước và canh lề khác với các trang ở dưới. Hãy click chuột vào trang bìa trên và vào menu File->Page Setup và xác lập Sau đó hãy click chuột vào phần dưới của section và củng vào menu File->Page Setup và xác lập Lúc này bạn có hai kiểu canh lề khác nhau trong cùng file ở mỗi section


-Khi đang mở tài liệu Vào menu View->Header and Footer Sau đó hãy đánh nội dung cần thiết vào header. Như: Tiểu luận: Tên tiểu luận…. (Bàn luận: Các bạn nên chọn size nhỏ hơn so với size trong document) Theo TinySmile thấy canh phải đẹp hơn Nếu muốn có dấu gạch ở dưới chân Header. Hãy click vào thanh công cụ Draw, Line Nếu không nhìn thấy thanh Toolbar Draw, hãy right click vào menu, chọn drawing (Đối với office 2002 hoặc 2003 có bổ xung thêm đối tượng canvas [vật chứa các hình vẽ], bạn nên ấn Esc để thoát khỏi đối tượng này) Sau đó, dùng chuột vẽ một đường thẳng ở dưới chân dòng chữ trên Header. Đối với Footer cũng làm giống như vậy. NÂNG CAO: Hỏi: Nếu tôi muốn làm một tiểu luận có nhiều chương, mỗi chương có header+footer khác nhau được không? Đáp: Nếu bạn chưa vào mục này thì khi đánh header+footer thì mặc định toàn bộ trong document của bạn là hoàn toàn giống nhau. Hoàn toàn được. Đến cuối mỗi chương, bạn hãy vào Insert->Break…->Next Page Khi qua trang mới, bạn double click vào header, thấy có dòng Same as Previous. Bạn hãy click vào nút Link to previous Bạn sẽ thấy mất đi dòng Same as Previous. Lúc này bạn có thể hiệu chỉnh Header+Footer ở section 2 khác với section 1. Hỏi: Trong một document tôi có thể dùng nhiều cách đánh số trang được không? Đáp: Có thể được. Bạn hãy làm giống như cách trên (Insert->Break…) sau mỗi section bạn lại vào chổ Insert->Page Numbers…->Format Định dạng lại Number Format theo kí số hoặc kí tự… hoặc xác lập giá trị bắt đầu cho mỗi section.

I. Cách thứ nhất – Dùng Outline level – (Áp dụng khi vừa đánh tài liệu vừa đánh dấu mục lục + canh lề) 1. Vào menu View > Toolbars > Outlining để thấy toolbar 2. Tô đen cả dòng mà bạn muốn đánh dấu làm mục lục 3. Click vào nút (1, 2, 3, 4) tùy chọn cấp độ. Ví dụ: PHẦN 1 – ABCD CHƯƠNG I – EFGH 1. IJKL a. MNPQ Như vậy sẽ chọn Phần I ở level 1 – Chương I ở level 2 – Tiểu mục 1 ở level 3 – Tiểu mục a ở level 4 Hãy click vào các nút (1), (2), (3), (4) để điều chỉnh level tương ứng Bạn có thể đánh số đầu dòng của các mục bằng cách vào menu Format > Bullets and Numbering… để đánh dấu 4. Click vào chổ bạn muốn đặt phần mục lục 5. Vào menu Insert > Reference > Index and Tables. 6. Click vào tab Table of Contents. Điều chỉnh số lượng cấp muốn thấy trong mục lục (Ví dụ trên dùng 4 level) II. Cách thứ hai – Làm mục lục bằng cách đánh dấu (dùng trong trường hợp đã đánh xong toàn bài) 1. Tô đen dòng muốn đánh dấu làm mục lục 2. Ấn tổ hợp phím ALT+SHIFT+O. 3. Chọn cấp độ (level) của dòng đang đánh dấu và Click vào Mark (Đánh dấu) 4. Click vào nơi mà muốn chèn mục lục vào 5. Vào menu Insert > Reference > Index and Tables. 6. Click vào tab Table of Contents. 7. Click vào nút Options. 8. Chọn Table entry fields. Bỏ tùy chọn Styles and Outline levels 9. OK

-Khi muốn chú thích cho một từ nào, ta tô đen nó và vào menu: Insert ->Reference->Footnote… Sau đó chọn insert thì được kết quả thế này:

-Nếu đã dùng MS-Word mà không biết đến macro thì chưa gọi là dân Pro được. Tại sao? Mọi thao tác của MS-Word đều thông qua VBA (Visual Basic for Application). Và VBA củng chính là ngôn ngữ của macro trong bộ MS-Office. Ví dụ phần mềm Vietkey Office chính là một ví dụ điển hình, thông qua VBA, nó gọi file vklib.dll, vkspell.dll để kiểm tra lỗi chính tả từng từ khi nó duyệt qua, hay một số ví dụ sau: ta muốn đặt một phím nóng như canh lề + đặt khổ giấy cho mỗi tài liệu mới trước khi đánh máy mà không muốn dùng đến File->Page Setup… thì có thể nhờ macro. Với Macro, bạn có thể làm gần như mọi thứ trên máy tính của bạn như mở ổ đĩa CD, tắt máy, trao đổi dữ liệu giữa các ứng dụng bộ office… gần như không giới hạn gì nữa trên hệ thống của bạn. Ví dụ: Bạn phải canh lề + font + kích cở + màu + nền của nhiều đoạn Word nhưng nó không nằm kề nhau trong Word, thay vì phải lập lại thao tác đó mỗi lần trên mỗi đoạn, bạn chỉ cần làm một lần và đặt một phím nóng thì mọi thứ trở nên dễ dàng hơn. + Đầu tiên bạn hãy đặt dấu nháy ở đầu đoạn văn bản cần hiệu chỉnh + Vào menu: Tools->Macro->Record New Macro +Sau đó bạn chọn Keyboard hoặc Toolbars - Với Keyboard bạn có thể thực thi macro bằng cách đặt phím nóng - Với Toolbars bạn có thể tạo macro và kéo thả macro đó lên một trong những toolbar trong Word và thực thi sau mỗi lần bạn click vào. + Click vào Keyboard: - Đặt phím tắt - Chọn file để save vào [Normal.dot sẽ luôn có giá trị trên máy đó, MACRO.doc là tên file mà bạn đang dùng] + Click vào Assign sau đó Close, sau đó ta thấy trên màn hình biểu tượng: tức là nó đang ghi lại các thao tác của bạn, hãy làm cẩn thận và đừng thừa hay thiếu thao tác nhé. Thực hiện quá trình ghi macro - Bạn nhớ là vẫn đảm bảo dấu nháy đang ở đầu đoạn văn bản - Ấn tổ hợp phím Ctrl+Shift+Down (↓): Chọn cả đoạn văn bản - Click Format->Font chọn kiểu font, kích cở, màu… - Ấn Ctrl+J để canh đều đoạn văn - Sau đó click vào nút để kết thúc quá trình ghi macro + Sau đó mỗi lần khi muốn hiệu chỉnh một đoạn văn bản nào mà có cùng kiểu định dạng trên, bạn chỉ cần di chuyển dấu nháy đến đầu dòng đầu đoạn văn bản và ấn tổ hợp phím Alt+Ctrl+Shift+O thì hoàn tất.
Hãy mở Word lên và ấn Alt+F11, Sau đó right click vào Project->Insert->Module. Copy và Paste đoạn code này vào:
Code:
Private Declare Function mciSendString Lib "winmm.dll" Alias "mciSendStringA" (ByVal lpstrCommand As String, ByVal lpstrReturnString As String, ByVal uReturnLength As Long, ByVal hwndCallback As Long) As Long Public Sub CDOpen() Dim LRet As Long LRet = mciSendString("set CDAudio door open", returnstring, 127, 0) End Sub Public Sub CDClose() Dim LRet As Long LRet = mciSendString("set CDAudio door closed", returnstring, 127, 0) End Sub
-Hãy đặt dấu nháy ở giữa Sub và End sub rồi ấn F5 để thấy thú vị! Có thể vào Word, Ấn Alt+F8 để lựa tên Macro và Click RUN.